Kinh nghiệm tăng trưởng khu công nghiệp của Đài Loan
Đài Loan là quần đảo nhỏ nằm trên biển Đông, sở hữu đặc thù địa lý và tài nguyên hạn hẹp, để còn đó và phát triển, từ cuối các năm thập kỷ 50 chính quyền Đài Loan xác định phải vun đắp mô phỏng kinh tế theo “cơ chế hướng ngoại” trong chậm triển khai chú trọng lớn mạnh công nghiệp. xây dựng và phát triển mô phỏng khu công nghiệp được coi là chiến lược bản lề, tạo đà cho quá trình công nghiệp hóa, đương đại hóa nền kinh tế của Đài Loan.

quá trình lớn mạnh các Khu công nghiệp của Đài Loan được tính từ lúc những chính sách ban sơ chỉ thuần tuý tạo mặt bằng để vun đắp các xí nghiệp công nghiệp được kết hợp với chính sách tăng trưởng cân đối theo vùng và chính sách phát triển kinh tế. công đoạn hình thành và vững mạnh các Khu công nghiệp ở Đài Loan sở hữu thể chia làm 4 giai đoạn:

công đoạn khởi đầu (1960-1970): khi các cấp công nghiệp đã vững mạnh hơi ổn định, vấn đề quy hoạch đất cho vững mạnh công nghiệp đã được đặt ra và Luật Khuyến khích đầu cơ ban hành năm 1960 là văn bản pháp lý trước nhất quy định về việc có mặt trên thị trường các KCN ở Đài Loan. KCN Lục Đổ được có mặt trên thị trường năm 1960 và KCX Cao Hùng năm 1965 là các Khu công nghiệp, KCX trước tiên do chính quyền Đài Loan đầu tư xây dựng [121].

thời kỳ lớn mạnh (1971-1980): hình thành các Khu công nghiệp dựa trên các kế hoạch phát triển kinh tế của Chính quyền Đài Loan nhằm vững mạnh các cấp công nghiệp mũi nhọn như lọc hoá dầu, luyện kim và đóng tàu biển..

thời kỳ chuyển đổi (1981-1990): sau năm 1983, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên nhu cầu tăng trưởng công nghiệp trong nước sút giảm, ảnh hưởng đến tiến trình tăng trưởng các Khu công nghiệp ở Đài Loan. bởi vậy, chính quyền Đài Loan chủ trương dùng KCN để thu hút những nhà đầu cơ sử dụng những kỹ thuật cao, hiện đại. Cụ thể, họ đã thử nghiệm quy hoạch khu vực đặc trưng lớn mạnh công ty vừa và nhỏ trong Khu công nghiệp ven biển Cao Hùng nhằm tương trợ hai dòng xí nghiệp này [124].

quá trình vững mạnh mới của Đài Loan (sau năm 1990 đến nay): thời kì này sự gia tăng của vấn đề ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên ngẫu nhiên dần dần cạn kiệt và áp lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp trong nước, nên phương thức công ty KCN đã chuyển sang hướng chuyên môn hoá, nhiều hoá hoạt động và đặc thù là nâng cao trình độ KHCN và trình độ điều hành [123, 126].

quá trình hình thành và lớn mạnh những KCN của Đài Loan, để đảm bảo cho các KCN hoạt động thành công, chính quyền Đài Loan đã ban hành đa dạng chính sách quyến rũ và triển khai xây dựng rộng rãi KCN đồng bộ phù hợp, cụ thể :

Về xây dựng các Khu công nghiệp đồng bộ
* Đồng bộ trong việc quy hoach vun đắp Khu công nghiệp
– Trên cơ sở vật chất quy hoạch tổng thể định hướng vững mạnh của từng vùng, khu vực và chung của cả nước, những nhà đầu tư xác định khả năng vun đắp các KCN mang quy mô thích hợp và lập quy hoạch chi tiết trình cơ quan có thẩm quyền xin phép đầu cơ xây dựng KCN. do vậy, việc xây dựng và vững mạnh những KCN vừa đảm bảo phù hợp sở hữu quy hoạch nói chung chung, vừa thích hợp với thực tiễn của địa phương và khả năng của nhà đầu cơ, nên tính khả thi của Dự án cao hơn.

– Quy hoạch vun đắp các KCN của Đài Loan luôn tuân theo nguyên tắc là khai thác và tiêu dùng với hiệu quả lợi thế so sánh của từng vùng và toàn lãnh thổ, giảm thiểu sử dụng đất nông nghiệp vào việc xây dựng những KCN. do đó, rộng rãi KCN ở Đài Loan được vun đắp tại các vùng đất cằn cỗi hoặc đất lấn biển, việc xây dựng những KCN ở các nơi này không chỉ có ý nghĩa về việc tiết kiệm được quỹ đất nông nghiệp vốn rất khan hi hữu, mà còn giảm thiểu được những giá tiền về bồi hoàn, phóng thích mặt bằng. tương tự, họ mang điều kiện để xây dựng ngay trong khoảng đầu một hệ thống kết cấu cơ sở đồng bộ và hiện đại theo chuẩn mực quốc tế [126].

* xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài Khu công nghiệp đồng bộ
Để đảm bảo hoạt động hiệu quả và tính đồng bộ của những KCN, Chính phủ Đài Loan cho xây dựng một hệ thống kết cấu cơ sở hoàn chỉnh, bao gồm cả cơ sở khoa học – phố hội bên trong và bên ngoài KCN như: hệ thống các con phố sá, cầu cống, ga xe lửa, cảng biển, cảng hàng ko, hệ thống liên lạc nội bộ, hệ thống thông tin liên lạc, cung cấp điện nước, các dịch vụ bưu điện, ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống xử lý chất thải tập trung… xây dựng những khu thành thị quanh đó, đảm bảo sản xuất nguồn nhân công và nhà sản xuất một thể ích công nghiệp và đời sống, trong chậm triển khai đặc thù chú trọng đến công việc bảo vệ môi trường.

các KCN được xây dựng mang hệ thống kết cấu cơ sở đồng bộ, tiên tiến vừa tạo điều kiện cho những tổ chức hạn chế giá thành cung cấp, vừa sở hữu điều kiện tụ họp để xử lý chất thải, bảo kê môi trường, vừa giúp các công ty có thể sớm triển khai những Công trình đầu cơ, là yếu tố tạo nên sự quyến rũ cho những KCN ở Đài Loan. Trên khu đất đã được quy hoạch xây dựng KCN, những nhà đầu cơ cơ sở vật chất xây dựng sẵn một số nhà xưởng, cung ứng kết cấu hạ tầng đồng bộ và dụng cụ hỗ trợ cơ bản khác cho những nhà đầu tư công nghiệp mang thể thuê ngay. Phương thức này đã tạo điều kiện cho các công ty vừa và nhỏ (dưới 200 lao động) với thể khai triển ngay được Dự án đầu cơ mà không phải bỏ vốn vun đắp nhà xưởng cung cấp và những công trình phụ trợ khác [128].

* Cơ cấu lĩnh vực trong những Khu công nghiệp
kế bên việc vun đắp hệ thống kết cấu cơ sở vật chất đồng bộ, Đài Loan còn chủ trương lôi kéo lớn mạnh ngành nghề trong những KCN để tạo sự liên kết đồng bộ, vững mạnh công nghiệp phụ trợ và được tiến hành theo 3 quá trình như sau:

giai đoạn một, Chính quyền Đài Loan chủ trương vững mạnh mạnh các đơn vị quản lý công nghiệp nhẹ, phân phối hàng xuất khẩu và những ngành nghề dùng rộng rãi cần lao.

giai đoạn 2, bắt đầu từ năm 1965 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, trong giai đoạn này, những chính sách của Đài Loan chủ yếu hội tụ vào việc đẩy mạnh lôi kéo đầu cơ nước ngoài. Bằng việc Chính quyền ra đời rộng rãi KCN, đặc biệt là cho xây dựng 3 Khu chế xuất và công bố Luật về Khu chế xuất với phổ quát khuyến mãi về nguồn vốn và hồ sơ hành chính, thực hành cơ chế điều hành “một cửa” tại những Ban quản lý KCX.

giai đoạn 3, từ năm 1990 tới bây giờ, chính sách phát triển KCN, chuyển từ đầu tư theo chiều rộng sang chiều sâu, nghĩa là tăng chất lượng những KCN bằng việc quy tụ xây dựng những khu công nghệ cao, phối hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật – công nghệ sở hữu công nghiệp, khuyến khích việc nghiên cứu và khai triển R/D trong các đơn vị quản lý công nghiệp, có mặt trên thị trường và doanh nghiệp lại đa dạng viện nghiên cứu…, tăng trưởng các KCN có phổ biến hình thức đa dạng: KCN đa ngành; KCN chuyên ngành: dầu khí, ôtô, xi măng; Khu công nghiệp dành cho những tổ chức trẻ mới ra đời và các KCX, khu khoa học cao.

khái niệm lạm phát là gì ?

khái niệm thuế thu nhập doanh nghiệp

tín dụng ngân hàng thương mại