1, Khái niệm khách du lịch
Đã có rất nhiều các khái niệm khác nhau về khách du lịch, định nghĩa đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Pháp, theo đó khách du lịch là người thực hiện một cuộc hành trình lớn “Faire le grand tour”. Cuộc hành trình lớn là cuộc hành trình từ Paris đến Đông nam nước Pháp
Năm 1800 tại Anh, khách du lịch cũng được định nghĩa là người thực hiện cuộc hành trình lớn trên đất liền xuyên nước Anh.
Đầu thế kỷ XX, Iozef Stander- nhà kinh tế học người Áo cho rằng: Khách du lịch là khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế.
Giáo sư Khadginicolov của Bungari đã đưa ra khái niệm về khách du lịch: Là người hành trình tự nguyện với những mục đích hoà bình, trong cuộc hành trình của mình họ đi qua những chặng đường khác nhau và thay đổi một hoặc nhiều lần nơi cư trú của mình.

Một người Anh khác là Morval lại cho rằng: Khách du lịch là người đến đất nước khác theo nhiều nguyên nhân khác nhau, những nguyên nhân đó khác biệt với những nguyên nhân phát sinh để cư trú thường xuyên và để làm thương nghiệp, ở đó họ phải tiêu tiền kiếm ra ở nơi khác.
Nhà kinh tế học người Anh Odgilvi khẳng định: Một người được coi là khách du lịch phải thoả mãn hai điều kiện: Phải xa nhà với khoảng thời gian dưới một năm và ở nơi đó phải tiêu những khoản tiền đã tiết kiệm ở nơi khác.
Tuy nhiên tất cả các khái niệm khách du lịch trên đều chưa đầy đủ, mang tính phiến diện, còn mang nặng tính chất phản ánh sự phát triển của du lịch đương thời, hạn chế nội dung thực của khái niệm “khách du lịch”.
– Khái niệm khách du lịch trên thế giới:
+ Năm 1989 tại hội nghị quốc tế về du lịch ở Hà Lan đã đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác với mục đích tham quan, nghỉ ngơi, giải trí, thăm hỏi trong khoảng thời gian ít hơn 3 tháng, những người khách này không được làm gì để được trả thù lao và sau thời gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi ở thường xuyên của mình.
+ Tiểu ban về các vấn đề kinh tế xã hội trực thuộc Liên hiệp quốc cho rằng:
Khách du lịch nội địa-Domestic tourist là công dân của một nước (không kể quốc tịch) hành trình đến một nơi trong đất nước đó, khác nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ, hay một đêm với mọi mục đích trừ mục đích hoạt động để được trả thù lao tại nơi đến.
– Khái niệm khách du lịch trong nước:
+ Khái niệm khách du lịch quốc tế:
Là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Trên giác độ thống kê, thống kê du lịch định nghĩa rằng:
Khách du lịch quốc tế là một khách đi du lịch tới một đất nước không phải là đất nước mà cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá một năm và mục đích chính của chuyến đi không phải là để hoạt động mục đích kiếm tiền trong phạm vi đất nước tới thăm.
+ Khái niệm khách du lịch trong nước:
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Còn thống kê du lịch thì cho rằng:
Khách du lịch trong nước là một khách cư trú ở một đất nước đi du lịch tới một địa phương trong nước đó nhưng ngoài môi trường thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá 6 tháng và mục đích chính của chuyến đi không phải là để hoạt động thực hiện kiếm tiền trong phạm vi địa phương tới thăm.
2, Nghiên cứu thống kê khách du lịch
a, Ý nghĩa của việc thống kê khách du lịch
Việc nghiên cứu thống kê khách du lịch có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi:
Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch là những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá kết quả hoạt động của từng đơn vị kinh doanh du lịch cũng như của toàn ngành du lịch.Thông qua các chỉ tiêu thống kê khách du lịch còn có thể nghiên cứu quy mô của thị trường du lịch.
Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch là cơ sở để tính các chỉ tiêu phân tích khác, phản ánh đặc trưng về hoạt động du lịch; ví dụ như: các chỉ tiêu đặc trưng về lưu trú, chỉ tiêu sản phẩm dịch vụ…
Các thông tin phân tích dự báo đối với chỉ tiêu thống kê khách du lịch là cơ sở để lập kế hoạch cho những chỉ tiêu quan trọng khác trong lĩnh vực dịch vụ; ví dụ: Lập kế hoạch về nhu cầu lưu trú, kế hoạch đầu tư cho các phương tiện giao thông vận tải du lịch, hệ thống các công trình phục vụ các hoạt động giải tri, bổ trợ…
Tham khảo thêm các bài viết khác của Luận Văn Việt:
+ kết luận bài tiểu luận
+ các đề tài thực tập ngành kinh tế đầu tư
+ các trình bày báo cáo thực tập chuẩn