Theo đồng thuận của Hội Tim mạch Hoa Kỳ năm 2005 thì những người có tình trạng đau ngực đã ổn định, tăng áp huyết (THA) đã kiểm soát hoặc nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp sau tái thông động mạch vành thành công (nong, đặt stent) từ 6 – 8 tuần mà không có triệu chứng đau ngực hay khó thở khi gắng công,… đều thuộc nhóm nguy cơ thấp, có thể an toàn để QHTD hoặc dùng các thuốc điều trị rối loạn cương dương Vegetal Vigra (RLCD) đi kèm.

Hoạt động tình dục cần tránh cho những người có các bệnh tim mạch như: NMCT mới trong vòng 2 tuần gần đây, THA chưa được kiểm soát, đau thắt ngực không ổn định hoặc kháng trị, cơn đau thắt ngực xảy ra khi có QHTD, suy tim độ III, IV, rối loạn nhịp tim nặng, bệnh cơ tim tắc nghẽn, áp huyết thấp (<90 0mmhg),=””>

Tuy không phái mạnh” và bạn tình của họ. Trong khuôn khổ bài viết này xin đề cập đến bệnh lý này ở bệnh nhân tim mạch và những lưu ý đặc biệt khi sử dụng thuốc.

Hoạt động dục tình xảy ra có liên quan đến nhiều hệ cơ quan khác trong thân như hệ tuần hoàn (tăng nhịp tim, tăng cung lượng tim, thể tích tâm thu và huyết áp tối đa tăng), hệ hô hấp (tăng nhịp thở, tăng tiêu thụ ôxy), về tuần hoàn vành (tăng nhu cầu dùng ôxy của mạch vành).

Như vậy, giao hợp – một dạng căn bản của hoạt động tình dục là một gắng công, chừng độ gắng sức của nó phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của từng bệnh nhân và hành vi dục tình của họ.

Đối với người thường ngày thì hoạt động tình dục là một gắng sức nhẹ nhưng đối với người có quan hệ dục tình (QHTD), tim chúng ta phải hoạt động với công suất cao để cung ứng đủ khối lượng tuần hoàn cho các bộ phận, cơ quan khác.
Xem thêm: Những di chứng do thuốc cương dương Viagra để lại cho bệnh nhân tim mạch
Sự ra đời của nhóm thuốc ức chế men phosphodiesterase – 5 (PDE-5) gồm sildenafil, tadalafil, vardenafil để điều trị rối loạn cương ở nam giới đã có nhiều thành công. Tuy nhiên, với bệnh nhân tim mạch, nhất là bệnh nhân đang điều trị bằng các thuốc nitrat thì cần có nhiều lưu ý.

Hiệu quả đạt được của nhóm thuốc này phụ thuộc vào chất giãn mạch oxit nitrit (NO). Các thuốc nhóm PDE – 5 có tác dụng ức chế men này và làm tăng lượng GMPc khiến dương vật cương tốt hơn và duy trì được lâu hơn. Do thuốc có tác dụng giãn mạch nên làm huyết áp giảm nhẹ và thoáng qua.

Các biến cố tim mạch, bao gồm cả các biến cố có liên quan đến áp huyết như hạ áp huyết, chóng mặt, ngất và nguy cơ tụt huyết áp sẽ cao hơn khi phối hợp các thuốc ức chế PDE5 với nhóm nitrat. Nếu bị đau thắt ngực khi đang sử dụng PDE5 thì không dùng nitroglycerin, chờ đến khi hết triệu chứng (24 giờ cho sildenafil và vardenafil, 48 giờ với tadalafil) vì nguy cơ có thể gây tụt huyết áp.

Sildenafil rất có hiệu quả với bệnh nhân bị RLCD không do căn do thực thể, còn đối với bệnh nhân có tổn thương thực thể thì hiệu quả điều trị sẽ kém hơn.

Sildenafil là thuốc làm giãn mạch nên có thể làm giảm kháng lực huyết quản hệ thống, tuy nhiên, khi dùng sildenafil với các thuốc hạ áp có tác dụng giãn mạch khác như nhóm thuốc chẹn canxi thì tác dụng làm hạ áp này của sildenafil không thấy rõ.

Vardenafil và tadalafil có tác dụng tuyển lựa hơn và ức chế men PDE-5 mạnh hơn sildenafil. Tác động của tadalafil trên PDE5 cao gấp trên 10.000 lần trên PDE3, một men tìm thấy trong tim và mạch máu, có can dự đến sự co bóp cơ tim.
Tham khảo : thao duoc yonggang cho bệnh nhân tim mạch hoạt động tình dục hiệu quả
Không dùng tadalafil và vardenafil với các nitrat hữu cơ. Tác dụng hạ áp nhẹ (bao gồm cả hạ áp phong thái) cũng xảy ra nhưng không thường xuyên trong các thí điểm lâm sàng của hai nhóm thuốc này, phần lớn các bệnh nhân đã có sẵn nhân tố nguy cơ tim mạch phối hợp.

Các thuốc ức chế PDE5 có tác dụng giãn mạch làm hạ áp huyết nhưng tác dụng này không nhiều nếu dùng riêng rẽ, thành thử với bệnh nhân đang dùng các thuốc hạ áp như nhóm ức chế men chuyển, ức chế thụ thể beta, lợi tiểu, có thể dùng thuốc điều trị cương mà không ảnh hưởng nhiều đến huyết áp.

Tuy nhiên, với bệnh nhân bị các bệnh về tim mạch nói chung khi dùng bất cứ loại thuốc nào cần tham khảo ý kiến của thầy thuốc điều trị để tránh tương tác thuốc xảy ra.